Tỉnh táo trước cái nhìn định kiến về Đề cương văn hóa Việt Nam 1943
Tuy nhiên, một số người có nhận thức
sai lệch, thậm chí xuyên tạc, phủ nhận những giá trị cơ bản của đề cương này,
qua đó ngầm ý phủ nhận đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhận thức sai lệch, thái độ định
kiến là không công bằng với lịch sử
Năm 2023 tròn 80 năm Đề cương văn hóa Việt Nam
1943 (gọi tắt là Đề cương) của Đảng ra đời. Nếu coi Đề cương này là tuyên ngôn
đầu tiên của Đảng về văn hóa nói chung và cuộc cách mạng văn hóa theo tinh thần
mác-xít nói riêng thì các hội nghị văn hóa toàn quốc, các Nghị quyết Trung ương
5 (khóa VIII), Nghị quyết số 33-NQ/TW của Đảng khóa XI là những bổ sung, điều
chỉnh các mục tiêu cụ thể của đường hướng được vạch ra từ “đêm trước” của cuộc
cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân, là điểm mở đầu cho việc xây dựng một
nền văn hóa mới.
Nhìn vào thực tế có thể thấy rất
rõ 3 phương châm “Dân tộc, khoa học, đại chúng” được vạch ra từ Đề cương cho đến
nay vẫn còn giữ được tính khoa học và thời sự. Với một tư tưởng, một luận thuyết,
80 năm là khoảng thời gian ngắn để đánh giá sức sống của nó, nhưng có thể thấy
những thành tựu của cuộc cách mạng xã hội có phần đóng góp to lớn của cách mạng
văn hóa. Yêu cầu đầu tiên của một đề cương là nhằm chỉ đạo và tổ chức hành động
nhất quán, đúng hướng. 3 phương châm (còn gọi là 3 nguyên tắc) “Dân tộc, khoa học,
đại chúng” chỉ được nói tới rất ngắn gọn và trong thực tiễn, có nơi, có lúc còn
hiểu chưa đúng, còn đơn giản hóa những phương châm này, nhưng về đại thể, khó
ai có thể phủ nhận được những thành tựu của cuộc cách mạng văn hóa mà Đề cương
đã chỉ ra.
Do tính chất cứu quốc của bản Đề
cương như một chương trình, cương lĩnh hành động của Đảng nên 3 nguyên tắc ấy
được giải thích rất ngắn gọn. “Dân tộc hóa” của nền văn hóa mới là chống lại những
ảnh hưởng của văn hóa nô dịch và văn hóa thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam
không thể phát triển độc lập. Nó chống lại tất cả các xu hướng văn hóa không vì
dân tộc Việt Nam. “Khoa học hóa” là chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa
thiếu tính khoa học và phản tiến bộ. Còn “đại chúng hóa” được giải thích là chống
lại những xu hướng tư tưởng, những thứ văn hóa mị dân khiến cho văn hóa Việt
Nam phản lại quyền lợi của đông đảo đại chúng, xa lánh đại chúng. Mấy năm sau,
tại một hội nghị quan trọng về văn hóa, trong báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa
Việt Nam”, đồng chí Trường Chinh với tư cách là Tổng Bí thư của Đảng đã nói đến
những nguyên tắc trên với tinh thần quyết liệt hơn. Từ những căn cứ này có thể
nói, 3 nguyên tắc mới của văn hóa Việt Nam được nêu ra từ trước ngày giành
chính quyền về tay nhân dân thấm đẫm tinh thần cứu quốc, hành động và thiết thực
chứ không phải là những nghiên cứu mang tính lý thuyết xa rời thực tiễn. Tinh
thần ấy xuyên suốt những năm sau này, cả trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc, thời
kỳ xây dựng đất nước và hội nhập. Nó chỉ được điều chỉnh, bổ sung những yếu tố
mang tính bộ phận, chiến thuật chứ về mặt đường hướng thì nhất quán cho tới bây
giờ.
Tuy nhiên, lâu nay, không ít người
đã cố tình hiểu sai đường hướng mà Đề cương vạch ra khi căn cứ vào những ý kiến
cụ thể trong những tình huống cụ thể, hay đem những lý giải của thời kỳ, một ý
kiến, luận điểm nào đó được đưa ra rồi gán cho nó những điều ở ngoài nó, khái
quát thành các luận điểm mang tính khái quát nhưng lại thiếu chính xác về mặt
khoa học nhằm “kết tội” đường hướng văn hóa do Đảng khởi xướng và lãnh đạo là
chính trị hóa văn hóa, áp đặt, sai lầm, thậm chí đòi phải từ bỏ nguyên tắc này
hay nguyên tắc khác.
Không thể phủ nhận những giá trị
căn bản của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943
Vì vậy, cần phải nhận thức thấu
đáo, khách quan về những giá trị căn bản của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943.
1. Trước hết, cần phải hiểu đây là
một bản đề cương để căn cứ vào đó mà các cấp vạch ra những kế hoạch, công việc
cụ thể nhằm không đi chệch ra khỏi những đường hướng chính ấy, để có thể đánh
giá thành công và thất bại của những hoạt động cụ thể dựa trên các căn cứ chứ
không phải là thành bại ngẫu nhiên. Xét về phương diện này thì 3 phương châm
“Dân tộc, khoa học, đại chúng” hoàn toàn chính xác. Vì là một cương lĩnh nên
các khái niệm này lúc đó cũng mang tính định hướng, trong đó mục tiêu cứu quốc,
tập hợp lực lượng để giành độc lập dân tộc, nghĩa là làm cách mạng xã hội rồi mới
làm cách mạng văn hóa (nội dung Đề cương) và trong thực tế, đến “Chủ nghĩa Mác
và văn hóa Việt Nam” của đồng chí Trường Chinh, một số nội dung cụ thể của nội
hàm khái niệm mới xác định. Cho đến nay, qua nhiều văn bản, nghị quyết, Cương
lĩnh, Đảng ta vừa bổ sung các nội dung mới cho những khái niệm này, vừa điều chỉnh
những điều chưa hợp lý của các thời kỳ lịch sử trước đó. Đây là một sự vận động
bình thường của đời sống.
Thế nhưng, một số người hay bắt bẻ
câu chữ, tự cho mình là người không giáo điều phê phán người khác không có quan
điểm lịch sử trong khi chính họ lại là những người bất chấp thực tế nên mang sẵn
định kiến, chỉ dựa vào câu chữ mà tách những tư tưởng ấy ra khỏi hoàn cảnh. Năm
1943, các nguyên tắc được xác định cũng chỉ là những định hướng nhằm mục tiêu
cho cuộc cách mạng xã hội sắp nổ ra. Vậy thì những gì trái với dân tộc, đại
chúng, khiến cho mục tiêu này không đạt được vừa trái với quan điểm của Đảng, vừa
không khoa học nằm ở khía cạnh ấy. Nó gắn với mục tiêu cứu nước bằng những hành
động có ích, thiết thực, chứ không phải những xu hướng tư tưởng xã hội và văn
hóa mang màu sắc “mị dân”, “phản dân tộc”, “xa đại chúng”... đang lan tràn
trong đời sống xã hội thời kỳ đó. Quan điểm “mượn màu duy vật”, cực đoan theo
xu hướng Trotsky cũng bị phê phán vì nó không mang tinh thần khoa học. Nói như
thế để thấy tính chất cứu quốc của bản Đề cương được đặt lên hàng đầu mang ý nghĩa
ấy.
Không phải ngẫu nhiên mà tại Hội
nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (ngày 24-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khái quát định hướng của văn hóa mới bằng một luận điểm rất sâu sắc là: “Văn
hóa soi đường cho quốc dân đi”. Sau đó là văn hóa kháng chiến, kiến quốc, văn
hóa tham gia vào đời sống mới, sửa chữa thói hư tật xấu cho cán bộ, chống tham
nhũng, làm cho dân tộc Việt đoàn kết, tự cường bằng cách nâng cao dân trí, chấn
hưng dân khí. Tinh thần ấy trở thành đạo đức xã hội “thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đã tập hợp mọi lực
lượng xã hội, tôn giáo, đảng phái cho mục đích giành độc lập dân tộc, là phương
châm hành động tất cả cho tiền tuyến, tiếng hát át tiếng bom, là động lực tinh
thần và nguồn lực phát triển nhằm mục đích vì hòa bình, tự do, dân chủ, vì sự
phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Đây không phải là văn hóa ứng dụng
mà là văn hóa hành động, là lối sống của cả xã hội, là đạo đức của thời đại chứ
không phải chỉ là những nghiên cứu lý thuyết xa rời thực tiễn. Cái đích của đường
lối văn hóa mới đã nói lên bản chất vấn đề.
2. Không phải đến bây giờ Đảng mới
nói đến những bất cập của Đề cương hay những luận giải về Đề cương trong “Chủ
nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” như một số người hay phê phán. Tính sơ lược
trong cách phân kỳ văn hóa, xác định tính chất văn hóa ở từng giai đoạn lịch sử
hay cách luận giải về “nội dung tân dân chủ” và “hình thức dân tộc” cũng là dễ
hiểu vì hoàn cảnh công bố văn bản và trình độ lý luận về những vấn đề chuyên
môn ở thời điểm ấy chưa vượt ra khỏi hạn chế của hoàn cảnh.
Phục vụ công nông binh, phục vụ kịp
thời, phục vụ tuyên truyền cho những nhiệm vụ chính trị là mệnh lệnh của Tổ quốc
trong giai đoạn ấy và văn nghệ sĩ cũng hiểu rằng Tổ quốc cần họ thực hiện trách
nhiệm công dân trước khi chọn chỗ đứng cho riêng mình. Nhà văn Nam Cao đã nói đến
tâm tư của mình và cũng là nhận thức chung của giới văn nghệ sĩ là “sống đã rồi
hãy viết” vì sự sống còn của dân tộc quan trọng hơn những theo đuổi riêng tư, kể
cả chuyện cầm bút. Trăn trở của các nhà văn Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Nguyễn
Đình Thi... trong kháng chiến chống Pháp là những suy nghĩ thực của họ. Họ chân
thành muốn thay đổi, chân thành muốn cống hiến, chân thành muốn đứng cùng đội
ngũ của những người ở tuyến đầu vì bản chất công việc của họ là như vậy, trách
nhiệm công dân của họ là vậy. Họ nhận thức được chân lý, niềm tin khoa học nhờ
một phần ánh sáng soi đường của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943.
3. Cuộc sống biến chuyển nhanh, những
đúc kết, nghiên cứu, khái quát cũng cần có thời gian. Bản chất của văn hóa là
tinh thần cộng sinh, kế thừa và phát triển, luôn có yếu tố tự bảo vệ để bảo tồn
những gì là của mình nhưng cũng luôn cởi mở tiếp nhận các yếu tố từ bên ngoài,
bản địa hóa nó, biến nó thành nội lực của chính mình để làm phong phú thêm cho
chính nó. Tiếp nhận Chủ nghĩa Mác là một cách như vậy. Mở cửa, hội nhập quốc tế,
nhịp bước cùng thời đại như chủ trương của Đảng ta hiện nay là từng bước thực
hiện tinh thần ấy. Hòa nhập, nhịp bước cùng thời đại không có nghĩa là bỏ lại
những gì của riêng mình để chạy theo người khác mà cần đóng góp vào trào lưu
chung bằng những thứ của riêng mình, là tinh hoa của mình.
Quá trình toàn cầu hóa là một cuộc
chơi lớn, cởi mở nhưng cũng sòng phẳng và khắc nghiệt. Nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra rằng đi đến tận cùng của cái dân tộc sẽ bắt gặp cái chung của nhân loại, hay
nói chính xác hơn là trong chiều sâu của mỗi nền văn hóa của các dân tộc cũng
chứa đựng phần chung của con người. Một nền văn hóa lấy dân tộc, nhân dân, đất
nước làm điểm tựa sẽ bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững, sẽ như liều
kháng sinh văn hóa giúp cho dân tộc ấy, đất nước ấy đủ sức đề kháng trước những
xu hướng không lành mạnh, có hại trong quá trình hội nhập. Đảng ta coi sự nghiệp
cách mạng văn hóa là của toàn dân, trong đó đánh giá cao vai trò của đội ngũ
văn nghệ sĩ là một xu hướng khoa học và nhất quán. Bởi vì ngay từ những năm đầu
thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra tuyên bố nổi tiếng: “Văn hóa soi
đường cho quốc dân đi”. Điều đó vừa là định hướng, vừa là mục tiêu cho chúng ta
xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, nhân dân hạnh phúc.
PGS, TS PHẠM QUANG LONG
Nguồn: qdnd.vn